Mình nghĩ cô Mận đã đưa ra 1 giải pháp ko đúng cho tình huống này.
. Có thể cô đã ko nắm hết đc những thông tin trong vụ việc kể trên, nên cô đã hiểu là quyền sử dụng đất đc tạo lập HOÀN TOÀN từ tài sản riêng của người chồng. Theo đó, người chồng sẽ chứng minh đc miếng đất là tài sản riêng của anh ta-thông qua các căn cứ, giấy tờ mà anh ta đã xác lập để có đc quyền sử dụng đất đó.
Cách hiểu trên là đúng, nhưng ko phải là cách hiểu DUY NHẤT ta có thể rút ra từ những dữ kiện đề bài cung cấp.
Tình huống chỉ cho chúng ta biết người chồng tạo lập quyền sử dụng miếng đất mới này bằng 2 nguồn tài sản:
1) 1 tỉ đồng tiền bán nhà riêng của người chồng.
2) Số tiền vay thêm từ ngân hàng.
Từ cách người chồng xác lập quyền sở hữu đối với 2 nguồn tài sản này, ta sẽ có hướng giải quyết cho từng trường hợp:
Trường hợp 1: Nếu người chồng có thể chứng minh cả 2 nguồn tài sản này là của riêng, thì quyền sử dụng đất mới đc tạo lập là tài sản riêng của anh ta. Căn cứ cho suy luận này là
Điểm b Khoản 3 NQ 02/2000/NQHĐTP:
tài sản có được từ nguồn tài sản riêng là tài sản riêng. Trường hợp này xảy ra khi số tiền vay ngân hàng của anh ta có được hoàn toàn nhờ vào tài sản riêng. Nói cách khác, căn cứ để người chồng có được khoản vay ngân hàng phải là tài sản riêng của anh ta. Có thể đó là tài sản riêng trước hôn nhân, tài sản được cho tặng riêng trước và sau hôn nhân, hoặc hoa lợi-lợi tức thu được từ các tài sản đó...
Nếu người chồng dùng các nguồn tài sản vừa liệt kê để xác lập khoản vay ngân hàng thì khoản vay ngân hàng đó là tài sản riêng của anh ta. Từ đó, quyền sử dụng đất cũng là của riêng anh ta.
Trường hợp 2: Nhưng chỉ cần người chồng ko chứng minh đc 1 trong 2 nguồn tài sản trên là của riêng, thì quyền sử dụng đất mới đc tạo lập sẽ trở thành tài sản chung. Căn cứ cho suy luận này là
Khoản 3 Điều 27 Luật HN-GĐ & cụ thể hoá tại
Điểm b Khoản 3 NQ 02/2000/NQHĐTP:
"Trong trường hợp không chứng minh được tài sản đang có tranh chấp này là tài sản riêng thì theo quy định tại khoản 3 Điều 27 tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng."Trường hợp này xảy ra khi số tiền vay ngân hàng của người chồng có đc ko xuất phát hoàn toàn từ tài sản riêng của anh ta. Nói cách khác, căn cứ để người chồng có được khoản vay ngân hàng ko là tài sản riêng của anh ta: đó là tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại
Điều 27 Luật HN-GĐ.
Nếu người chồng dùng những nguồn tài sản tại Điều 27 Luật HN-GĐ để xác lập khoản vay ngân hàng thì anh ta chồng không thể chứng minh khoản vay là tài sản riêng. Do đó, khoản vay sẽ là tài sản chung của vợ chồng. Từ đó, quyền sử dụng đất là tài sản chung.
KẾT LUẬN:1) Từ những dữ kiện đề bài ta có 2 cách giải quyết đã được nêu ở trường hợp 1&2, tuỳ vào cách anh chồng xác lập khoản vay ngân hàng.
2) Vấn đề bàn thêm:Nếu anh chồng xác lập khoản vay ngân hàng bằng tài sản riêng (
vd anh ta có dc khoản vay bằng cách thế chấp 1 bất động sản của riêng anh ta) nhưng thực hiện nghĩa vụ với ngân hàng bằng tài sản chung (
vd: trả nợ hoặc lãi suất hoặc cả nợ & lãi suất bằng tiền lương). Thì khoản vay ngân hàng là tài sản chung hay riêng???
[vấn đề này nhóm mình cãi căng lắm đấy]