NGUYỄN NGỌC TUYỀN – Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng 1. Đặt vấn đề Gần
hai mươi năm đã trôi qua kể từ ngày chính phủ hai nước Việt Nam – Hàn
Quốc chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao cấp Đại sứ (22/12/1992).
Trong khoảng thời gian đó, mối quan hệ giữa hai nước đã có những chuyển
biến rất sinh động, tích cực và đạt được nhiều thành quả trên các mặt
kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học kĩ thuật… Trên lĩnh vực kinh tế,
các nhà đầu tư, kinh doanh Hàn Quốc đã tìm đến Việt Nam như một thị
trường mới mẻ, đầy hứa hẹn. Nắm bắt tiềm năng này, Hàn Quốc đã nhanh
chóng trở thành nhà đầu tư và là đối tác thương mại hàng đầu của Việt
Nam. Đồng thời, trong nhiều năm trở lại đây, Hàn Quốc cũng là thị trường
thu hút nhiều lao động xuất khẩu của nước ta. Về mặt văn hóa xã hội,
quan hệ trao đổi hợp tác giữa hai nước trên các lĩnh vực văn hóa – giáo
dục, khoa học kỹ thuật phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ, mang lại những
hiệu quả thiết thực. Làn sóng văn hóa Hàn Quốc (Hallyu) với mục tiêu
truyền bá hình ảnh văn hóa Hàn Quốc ra thế giới đã ồ ạt tràn vào Việt
Nam và được giới trẻ Việt Nam tiếp nhận mạnh mẽ… Có thể nói, dấu ấn Hàn
Quốc để lại đối với xã hội Việt Nam trong gần hai mươi năm quan hệ ngoại
giao là rất lớn. Tuy nhiên, trong mối quan hệ này, mặt tốt cũng nhiều,
nhưng mặt xấu cũng không ít. Trên thực tế, đi cùng với những thành tựu
trong quan hệ giữa hai nước là không ít những vấn đề xã hội nảy sinh và
ngày càng trở thành những điểm nóng thu hút sự quan tâm của dư luận Việt
Nam, Hàn Quốc. Trong đó, thiết nghĩ vấn đề cấp thiết hơn cả và cần sự
quan tâm nhiều hơn từ chính phủ và xã hội hai đất nước chính là vấn đề
môi giới hôn nhân quốc tế giữa cô dâu Việt Nam với đàn ông Hàn Quốc.
2. Vài nét về thực trạng môi giới kết hôn thương mại giữa phụ nữ Việt Nam và đàn ông Hàn QuốcTừ vài năm trở lại đây, thỉnh thoảng báo chí Việt Nam
và Hàn Quốc lại gây xôn xao dư luận của hai xã hội với những bài báo
viết về những vụ việc đau lòng xảy ra đối với một số cô dâu Việt Nam bất
hạnh trên xứ người. Cô dâu Việt Nam tự tử do không tìm được lối thoát
cho mình trong cuộc hôn nhân với người chồng Hàn Quốc. Cô dâu Việt Nam
bị chồng đánh đập tàn nhẫn đến chết… Trong suốt năm 2008, xã hội Việt
Nam lẫn Hàn Quốc đều tỏ ra rất bất bình trước vụ việc cô dâu Việt Nam bị
nhà chồng tước đoạt quyền nuôi con, không cho cô được tiếp xúc với
hai đứa con của mình ngay sau khi cô sinh xong. Và gần đây nhất là vụ
việc cô dâu Thạch Thị Hồng Ngọc đã bị chồng, vốn là người có vấn đề về
thần kinh, đâm chết vào ngày 8/7/2010 tại thành phố Busan.
Mức độ nghiêm trọng từ những vụ việc đáng tiếc
xảy ra trong đời sống cô dâu Việt Nam trên xứ Hàn như đã nêu trên cho
thấy rằng đã đến lúc chính phủ và xã hội ở hai quốc gia cần phải quản lý
nghiêm ngặt hơn đối với vấn đề môi giới hôn nhân quốc tế, cũng như quan
tâm sát sao hơn nữa để giải quyết nhiều hệ quả mang tính xã hội kéo
theo từ các cuộc hôn nhân này.
Tháng 5 năm 2006, chính quyền Roh Muhyun chủ trương
xây dựng Hàn Quốc thành một xã hội đa văn hóa, đa dân tộc. Với chủ
trương này, chính phủ Hàn Quốc đảm nhận vai trò chính để truyền bá chủ
nghĩa đa văn hóa và xem đây như một cách thức dễ dàng để giải quyết các
vấn đề của tỉ lệ sinh thấp trong xã hội Hàn Quốc đang già hóa đi.
Những
ngân sách lớn từ chính quyền trung ương và địa phương được trút vào
việc thành lập các trung tâm đa văn hóa do chính phủ điều hành, cũng như
việc tổ chức những sự kiện và chương trình được gọi là đa văn hóa. Hầu
hết các chính sách của chính phủ được lập ra
dưới cái tên của chủ nghĩa đa văn hóa nhằm mục đích cung cấp những chương trình như các lớp dạy tiếng Hàn hay các lớp dạy văn hóa Hàn Quốc để giúp những người nhập cư hòa nhập
vào xã hội Hàn Quốc. Theo những chính sách đi từ trên xuống này, chỉ
sau một thời gian ngắn, thuật ngữ “chủ nghĩa đa văn hóa” nhanh chóng
được phổ biến rộng rãi trên toàn quốc và trở thành câu nói cửa miệng đối
với mỗi người dân Hàn Quốc. Trong khi chủ nghĩa đa văn hóa do chính
phủ Hàn Quốc chỉ đạo ngày một lan rộng khắp xã hội Hàn Quốc thì vấn đề
môi giới hôn nhân thương mại hóa dần bị lu mờ đi trong sự quan tâm của
người dân. Rõ ràng những chính sách từ chính phủ Hàn Quốc vô hình trung
đã góp phần thúc đẩy các hoạt động môi giới hôn nhân phát triển rầm rộ
lên(1).
Ở Việt Nam, từ tước khi làn sóng Hallyu xâm nhập vào,
vấn đề kết hôn di cư cũng đã được đề cập nhiều xuất phát từ những tiêu
cực trong trào lưu kết hôn của phụ nữ Việt với chồng Đài Loan. Nhưng từ
sau đó, cùng với việc tiếp nhận ảnh hưởng của Hallyu và hoạt động mạnh
mẽ của các công ty môi giới hôn nhân quốc tế, số phụ nữ Việt đăng kí kết
hôn với đàn ông Hàn Quốc càng nhiều. Kể từ sau khi số cặp kết hôn Việt
Nam – Hàn Quốc vượt quá con số 1000 vào năm 2003, những năm sau đó, xu
hướng kết hôn với đàn ông Hàn Quốc đã tăng lên rất nhanh. Tính cho đến
gần cuối năm 2007, tổng số phụ nữ Việt Nam lấy chồng Hàn đã lên tới con
số 20,523 người (2).
Trên thực tế, con số này ám
chỉ không ít những hiện tượng tiêu cực xung quanh vấn đề kết hôn quốc tế
này. Trước hết đó là vấn đề các công ty môi giới hôn nhân. Hoạt động
môi giới hôn nhân ở Việt Nam được xem là phạm pháp, nhưng các công ty
này bằng đủ mọi hoạt động trá hình đã thiết lập nhiều đường dây để dụ dỗ
các cô gái Việt Nam lấy chồng Hàn Quốc. Các công ty này chủ yếu đánh
động vào sự ngây thơ, cả tin của các cô gái nông thôn chỉ muốn lấy chồng
với hi vọng đổi đời để có thể giúp đỡ gia đình sau khi kết hôn… Trong
khi đó, ở Hàn Quốc, các hoạt động quảng cáo, môi giới kết hôn này lại tự
do phát triển mạnh mẽ, phụ nữ Việt Nam và cả những phụ nữ nước ngoài
trở thành những món hàng để những người đàn ông Hàn Quốc đong đếm, lựa
chọn về làm “vợ”. Tính chất thương mại hóa được thể hiện rõ trong quá
trình những người đàn ông Hàn Quốc “xem hàng” (các cô gái Việt Nam) để
lựa chọn và sau đó là trả tiền lo thủ tục cưới xin cùng tiền hoa hồng
cho phía môi giới.
Đầu năm 2006, sau khi Nhật báo Chosun đăng bài
viết về thực trạng cô dâu Việt lấy chồng Hàn với cái nhìn vô cảm, bảo
vệ cho các công ty môi giới và xúc phạm đến quyền chân dung của phụ nữ
Việt Nam, các du học sinh Việt Nam đã tập trung biểu tình trước tòa soạn
báo Chosun yêu cầu tòa soạn phải nhận lỗi trước hành động sai trái của
mình, đồng thời nhóm biểu tình cũng đề nghị xóa bỏ các bảng quảng cáo về
cô dâu Việt Nam cũng như cô dâu những nước khác lấy chồng người Hàn.
Cuộc biểu tình này đã đạt được những thành công nhất định, người dân hai
nước, đặc biệt là người dân Việt Nam đã có những quan tâm sâu sắc hơn
đến vấn đề nhân quyền của người phụ nữ trong xã hội ngày nay.
3. Hậu quả xã hội trong hôn nhân quốc tế thương mại Việt Nam – Hàn Quốc Được thực hiện một cách chóng vánh theo tính chất
thương mại hóa nên các cuộc hôn nhân quốc tế giữa phụ nữ Việt Nam và
đàn ông Hàn Quốc hầu hết đều không xây dựng trên một điều kiện cần cốt
lõi cho một cuộc hôn nhân là tình yêu thương và sự thông hiểu lẫn nhau.
Tổng lượng thời gian tiếp xúc của những cặp vợ chồng này tính từ lúc
gặp nhau trong buổi xem mặt cho đến khi cô dâu Việt Nam đặt chân đến
Hàn Quốc cũng chỉ không quá vài ngày. Khoảng thời gian để các cô dâu
chuẩn bị học tập tiếng Hàn chỉ độ một tháng. Trong điều kiện như vậy, rõ
ràng chúng ta có thể thấy trở ngại lớn nhất trong đời sống của người
con dâu Việt Nam trong gia đình Hàn Quốc là bất đồng về ngôn ngữ và kém
hiểu biết văn hóa. Những câu chuyện đáng tiếc đã xảy ra như báo chí đã
đưa tin có thể xem là những minh chứng thuyết phục cho điều này.
Tác
giả bài viết này đã từng đứng lớp để dạy những hiểu biết cơ bản nhất về
Hàn Quốc cho nhiều cô gái trẻ Việt Nam đang chờ đợi ngày nhận visa để
đi sang Hàn Quốc đoàn tụ cùng gia đình chồng. Hầu hết những cô gái này
xuất thân từ đồng bằng sông Cửu Long, trình độ học vấn thấp chỉ dừng lại
ở mức tiểu học, hay trung học cơ sở là chính. Đó là những thanh niên
thất nghiệp, nhà nghèo lại đông anh em. Cuộc sống nghèo khổ và khó có
thể tìm ra lối thoát ở quê nhà đã khiến họ dễ dàng nghe theo những lời
giới thiệu của những cô gái cùng thôn đi lấy chồng Hàn Quốc, khiến họ
nhẹ dạ tin vào bao lời nói đầy hứa hẹn của các công ty môi giới, thêm
vào đó, được sự khuyến khích từ chính gia đình, họ đã quyết định đi lấy
chồng nơi đất Hàn xa xôi với ước vọng đổi đời để có thể trút bớt gánh
nặng cho gia đình. Trong khi đó, những đối tượng đàn ông Hàn Quốc được
kêu gọi lấy vợ nước ngoài lại chủ yếu là: đàn ông đã góa vợ phải nuôi
con một mình, đàn ông ở các vùng quê nghèo không kiếm được vợ, người tàn
tật… và hầu hết họ cũng là những người nông dân với trình độ học vấn
thấp. Chính trình độ học vấn thấp, những hạn chế về hiểu biết văn hóa
hai nước cùng sự bất đồng ngôn ngữ là ba nhân tố chính gây nên những mối
bất hòa, căng thẳng trong các gia đình đa văn hóa này. Thiết nghĩ một
khi giữa cô dâu Việt Nam và người chồng Hàn Quốc có được sự thông hiểu
văn hóa này thì những xung đột trong các cuộc hôn nhân quốc tế này sẽ
giảm đi đáng kể. Nắm bắt được điều này, hiện nay ở Hàn Quốc đã hình
thành nhiều tổ chức, đoàn thể xã hội như Trung tâm hỗ trợ cho phụ nữ kết
hôn di cư, Đường dây nóng hỗ trợ phụ nữ kết hôn di cư… thực hiện việc
hỗ trợ, giúp đỡ, tư vấn, cung cấp cho phụ nữ kết hôn di cư tất cả những
thông tin cần thiết về văn hóa, xã hội, pháp luật…
Một vấn đề quan trọng khác hiện nay được đặt ra liên
quan đến hiện trạng hôn nhân quốc tế này chính là vấn đề giáo dục cho
thế hệ con cái của mẹ Việt Nam và bố Hàn Quốc. Cùng với sự tăng lên của
con số các cuộc hôn nhân quốc tế này, số con lai Việt Nam – Hàn Quốc
cũng đang tăng lên nhanh chóng. Bất lợi đầu tiên của những đứa trẻ này
là bố mẹ chúng không thông hiểu nhau về mặt ngôn ngữ, văn hóa dẫn đến sự
không nhất quán trong quá trình dạy con. Họ dễ dàng rơi vào sự lúng túng, không biết
nên dạy con bằng tiếng Hàn hay tiếng Việt. Nếu dạy con bằng tiếng Hàn thì mẹ không
đủ
khả năng để dạy và sau này con cũng không thể hiểu được tiếng mẹ.
Đồng thời người mẹ cũng không thể chỉ dạy con bằng tiếng Việt trong khi
đang sống trên đất Hàn. Và làm thế nào để những đứa trẻ này không bị lạc
lõng khi vào học ở các trường… vẫn còn là một vấn đề gây tranh cãi
nhiều trong xã hội Hàn Quốc.
4. Kết luận Những vấn đề người viết trình bày trên đây phần nào
cho thấy được mức độ nghiêm trọng của những cuộc hôn nhân thương mại
hóa giữa Việt Nam và Hàn Quốc. Tình trạng xâm hại nhân quyền, đặc biệt
là quyền của người phụ nữ là thực tế đáng báo động để kêu gọi sự quan
tâm của xã hội để giải quyết vấn đề này. Ở một góc độ nào đấy, xã hội
Hàn Quốc đã thể hiện sự quan tâm của mình trong việc cải thiện những
tiêu cực trong các cuộc hôn nhân quốc tế, bảo vệ và giúp đỡ các cô dâu
nước ngoài nói chung, Việt Nam nói riêng từng bước thích ứng dần với
cuộc sống trên xứ sở kim chi này. Thiết nghĩ, xã hội Việt Nam cần cương
quyết hơn nữa trong việc quản lý các hoạt động môi giới hôn nhân quốc
tế. Bên cạnh đó, nhà nước cần quan tâm nhiều hơn, tạo công ăn việc làm
để cải thiện đời sống người dân ở những vùng quê nghèo, thực hiện công
tác tuyên truyền giúp họ hiểu sự nguy hiểm trong quá trình môi giới hôn
nhân quốc tế. Đồng thời, chúng ta cần mở thêm lớp học cung cấp những
thông tin cơ bản về văn hóa, xã hội… cũng như pháp luật Hàn Quốc cho
những cô dâu này để họ có được những sự phòng bị thiết thực nhất trước
khi xuất ngoại. Hi vọng Việt Nam, Hàn Quốc sẽ nỗ lực hơn nữa trong việc
giải quyết vấn đề này để mối quan hệ giữa hai quốc gia ngày một tốt đẹp
hơn.
Chú thích:1. Jiyoung Lee An, A Review of Commercialized
International Marriage Brokers in Korea, Migration Women Human Rights
Forum, 2010,
http://www.arenaonline.org/xe/?document_srl=2110#0 2. Trích dẫn từ tư liệu trên diễn đàn chính sách kết hôn quốc tế Hàn – Việt của Bộ Gia đình Phụ nữ Hàn Quốc (ngày 23.11.2007
TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Diễn đàn chính sách kết hôn quốc tế Hàn – Việt của Bộ Gia đình Phụ nữ Hàn Quốc
(ngày 23.11.2007)
[2] Jiyoung Lee An, A Review of Commercialized International Marriage Brokers in
Korea, Migration Women Human Rights Forum, 2010,
http://www.arenaonline.org/xe/?document_srl=2110#0 [3]
http://vnexpress.net/GL/The-gioi/Nguoi-Viet-5-chau/2010/07/3BA1E2BF/ [4]
http://www.thanhnien.com.vn/News/Pages/201030/20100724100204.aspxSOURCE: TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG – SỐ 5(40).2010